Lòng nhân từ và sự cô độc

24/11/2004 01:01 GMT+7

“Hiện đại”, “tự tin”, “bản lĩnh” đó là những từ ngữ mà tôi đã được nghe nhiều nhất khi người ngoài nhắc đến mình, nhưng đối với những người thân bên cạnh tôi thì họ lại thích nói về tôi bằng một từ ngữ khác đơn giản hơn, đó là “nhân từ”.

Có lẽ ít ai biết được là từ năm lên 6 tuổi tôi đã bắt đầu vào chùa học đạo, tôi đã theo học suốt 12 năm cho đến khi ra nước ngoài du học. Hôm nay là ngày giỗ của thầy tôi, ni sư Thích nữ Trí Hải, tôi muốn có đôi lời tri ân, hoài niệm đến thầy. Tôi đã may mắn có được một người thầy thật tuyệt vời với một nhân cách đáng kính, thầy đã dạy cho tôi tất cả những gì tinh túy nhất của đạo Phật và cả đạo làm người. Trong đó một lời dạy mà tôi rất tâm ý là “tài sản vô giá nhất của con người chính là sức khỏe và trí tuệ”. Vì thế mà trong bao năm qua tôi đã không ngừng “học, học nữa, học mãi” cả trong trường học và ngoài trường đời để tự trang bị cho mình một trí tuệ lành mạnh. Và thầy tôi cũng từng nói khi chúng ta đã có một trí tuệ thì phải biết dùng cái “tâm” để khống chế cái “trí” hướng đến những điều cao đẹp, phục vụ cho lợi ích của con người và cả cuộc đời, đừng nên vì chữ “tham” mà làm lu mờ đi cái trí tuệ ấy. Ngày tôi ra đi bắt đầu cuộc sống tự lập nơi đất khách quê người thì những lời thầy dạy là thứ hành trang quý báu nhất mà tôi luôn mang theo bên mình.

Khi sang Singapore học đại học, tôi đã phải thuê nhà dân để ở, đó là một gia đình có hai vợ chồng và 2 cô con gái xinh xắn. Sau một thời gian chung sống thì tôi được biết cô chị 10 tuổi học khá kém, nhất là môn Toán, thế là tôi đã tình nguyện dạy kèm miễn phí cho cô bé 2 giờ đồng hồ mỗi tối tan trường. Với sự nhiệt tình hướng dẫn của tôi, cô bé đã đạt loại giỏi trong kỳ thi cuối năm học, một kết quả chưa từng có đối với cô bé. Nhìn gương mặt rạng ngời niềm hạnh phúc của bậc làm cha mẹ chính là phần thưởng quý giá nhất mà tôi có được. Một thời gian sau, do việc học tập của tôi ngày càng trở nên căng thẳng, và bận rộn, tôi đã dùng hết năng lực của mình cho những cuốn sách dày cộm trong thư viện và những chuyến đi tham khảo thực tế, tôi thấy mình không đủ sức để tiếp tục dạy kèm cho cô bé. Tôi đã bày tỏ nỗi niềm của mình với hy vọng và mong đợi một sự cảm thông hơn là một thái độ lạnh lùng quay lưng. Thế là những lời chào hỏi mỗi khi tôi đi học về đã thôi không còn nữa. Thiết nghĩ trẻ con sẽ không biết đến những phản ứng gay gắt như vậy nếu không có sự tác động của người lớn, và tôi tự hỏi tại sao bậc làm cha mẹ lại đang tâm hủy hoại đi cái đạo đức đang còn rất non dại ấy của con thơ. Tôi đã hết lòng dạy dỗ cho cô bé không phải với chữ “tài” mà là bằng chữ “tâm” của mình, bởi thầy tôi từng nói chỉ khi nào mình dùng cái “tâm” ra để làm việc thì mới mong có được kết quả tốt đẹp.

Trong một lần khác vừa từ thư viện về đến nhà, thì cô chị đã hớt hải chạy ra nước mắt nhạt nhòa nói với tôi rằng cô em đang bị sốt nặng, cha mẹ lại vắng nhà, gọi điện thoại thì không được cho nên em không biết phải làm sao. Tôi vội vã bế thốc cô em đang mê man chạy đi tìm bác sĩ. Thú thật, đối với những du học sinh như chúng tôi mỗi khi có bệnh tật gì thì cũng chỉ uống vài viên thuốc rồi cố gắng lướt cho qua bệnh chứ có bao giờ dùng đến cái từ ngữ sang trọng là “đi bác sĩ” đâu, cho nên đến khi cần thì không biết bác sĩ ở đâu mà tìm. Tôi đã bồng cô bé trên đôi tay mình, lúc mỏi quá thì lại cõng trên lưng, cứ thế gần suốt 2 tiếng đồng hồ trong đêm tối chạy qua rồi chạy lại tìm bác sĩ. Cuối cùng thì tôi cũng đến được một phòng mạch gia đình, sau khi được tiêm thuốc thì sắc mặt cô bé đã dịu xuống phần nào và tôi lại bế cô bé trở về. Sau khi giao cô bé lại cho người mẹ và dặn dò thuốc thang cẩn thận, tôi đã đổi lại được câu nói vỏn vẹn của bà “làm phiền cô, để tôi gửi tiền thuốc lại”. Tôi trở về phòng ngồi vào bàn máy vi tính để bắt đầu làm bài, nhìn đôi tay mình run run, mỏi nhừ lướt đi một cách khó nhọc trên bàn phím, tôi lại nhớ về thầy. Dẫu biết lời dạy năm xưa “làm ơn thì chẳng mong người trả ơn” nhưng sao tôi vẫn thấy đau một cách kỳ lạ, nỗi đau không phải ở đôi tay nữa mà hiện hữu đâu đó trong tâm khảm và trái tim tôi.

Còn nhiều lắm những chuyện vô tình nhạt nhẽo đời thường trong cái cuộc sống tự lập của tôi, như một sự thách thức đến cái lòng “nhân từ” mà thầy đã cố công rèn luyện cho tôi. Đôi khi tôi chỉ muốn được thu nhỏ mình lại trước thế giới bên ngoài, bởi tôi sợ cho cái lòng “nhân từ” ấy cứ phải tiếp tục bị tổn thương. Tôi đã cố gắng quen dần với phong cách “chỉ nói những gì cần nói và làm những gì cần làm”. Chính thái độ ấy đã giúp tôi tự bảo vệ mình nơi xứ người thì dường như lại phản tác dụng trên chính quê hương mình. Trong quá trình tham gia Hoa hậu Việt Nam, tôi đã được dịp đến thăm trại trẻ mồ côi ở Quảng Ninh, tại đây tôi đã gặp một bé trai 13 tuổi thông minh, học giỏi và lễ phép, tôi và bé rất quý nhau, tôi đã nhận làm chị đỡ đầu để bé có thể nương tựa vào nếu gặp chuyện khó khăn cả trong học tập cũng như cuộc sống. Tôi cũng biết được bé còn có một người mẹ tật nguyền mất khả năng lao động, tôi đã thực sự thương xót bằng cả tấm lòng mình và tỏ chút thành ý giúp đỡ. Tôi làm tất cả những việc đó vì tôi thấy bản thân mình cần phải làm vì tình người mà không cần phải nói cho ai biết.

Đôi lúc tôi ước gì thầy vẫn còn đây để tôi có thể hỏi thầy rằng những lời thầy dạy tôi năm xưa về cách làm người có còn phù hợp với thời đại ngày nay nữa không. Thầy đã nói trước khi muốn làm một việc gì thì hãy tự đặt mình vào vị trí của người khác để mà suy nghĩ xem hành động và lời nói của mình có làm tổn thương đến người khác hay không rồi mới thực hiện. Thiết nghĩ nếu tôi cứ tiếp tục sống theo lời dạy của thầy và cũng là lý tưởng của riêng tôi thì liệu tôi có bị cô độc lắm không giữa cuộc đời này ?

Trịnh Chân Trân
(Á hậu 1 Việt Nam 2004)

Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.