Gian nan đường đến bản Cát

15/03/2013 09:58 GMT+7

Bản Cát thuộc xã Hướng Sơn (H.Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị)- nơi không nước sạch sinh hoạt, không điện thắp sáng, không trạm y tế… Con đường dẫn vào bản làng lẫn đường đến đỉnh cao tri thức dài dằng dặc, thưa vắng bước chân người.

Gian nan đường đến bản Cát
Lớp học cũng là nhà ở của giáo viên cắm bản ở Bản Cát - Ảnh: Thụy Khuê

Gian nan đường đến bản Cát

Sau hơn 5 giờ cật lực đi bộ, băng qua 3 bản làng với khảng 5 con suối cắt ngang lối mòn giữa rừng sâu, bản Cát (xã Hướng Sơn, huyện Hướng Hóa, Quảng Trị) hiện ra trong không gian mờ ảo của sương chiều. Bản Cát trước mắt chúng tôi chẳng khác một ốc đảo là mấy. Ngược đường đi, đôi vợ chồng trẻ hớt hải bế con chạy tất tả. “Cháu 10 tháng tuổi, bị ốm mấy hôm nay, giờ sốt nặng quá bỏ cả ăn nên vợ chồng mình đưa con ra trạm y tế xã để khám”, người đàn ông tên Hùng, tầm ngoài 30 tuổi vừa nói, đôi tay ôm chặt đứa bé với vẻ mặt thất thần. “Ở đây những người được học cái chữ, hiểu biết về bệnh tật như anh Hùng không nhiều. Nhiều người dân khi con ốm đau thường phó mặc cho số phận hoặc nhờ vào thầy mo thầy cúng”, ông Trí, Trưởng bản lắc đầu.

Núi rừng vào Đông màn đêm buông rất nhanh. Sau hồi kẻng báo làng có khách, người già lẫn trẻ con từ các ngôi nhà sàn đổ về nhà ông Trí. Lặng lẽ châm lửa vào tẩu thuốc, ông Trí vẫn không đổi thần khí của chất giọng: “Đường sá khó khăn, người già mỗi năm nhiều lắm là ra khỏi bản đôi lần. Đó lại là những lần đặc biệt như ốm đau hay cần một việc gì quan trọng lắm. Bà con phần lớn nghèo, ít người có điều kiện nên con cái cứ thất học mãi. Bệnh tật còn khổ hơn. Mỗi năm ít nhất vài người mất vì bệnh. Cứu răng kịp? Bệnh khẩn mà võng cáng cũng mất cả ngày trời. Thanh niên đi vắng, người già, trẻ nhỏ chịu để con ma rừng bắt đi”.

Khác với tập quán thường xuyên du canh du cư, người Vân Kiều bản Cát vẫn gắn bó thủy chung mảnh đất nơi thế hệ ông cha đã chọn lựa và dày công khai phá. Nguồn sống của hàng trăm con người nơi đây, hàng trăm năm qua vẫn chủ yếu nhờ vào cây lúa rẫy và chim rừng, cá suối. Ông Trí tiếp: “Để giúp người dân thoát nghèo, cách đây 4 năm, Đồn kinh tế quốc phòng 337 đã đầu tư gần 3 tỷ đồng để xây dựng công trình thủy lợi Cát Sứ, dẫn nước từ khe Miếu về tưới tắm cho cánh đồng rộng gần 20 ha. Tuy vậy, đất đai phần bạc màu, thiếu dinh dưỡng, phần khác đồng bào ở bản Cát hầu như vẫn chưa mạnh dạn thay đổi tư duy trong sản xuất nên năng suất cây lúa chưa cao”. Đó chưa phải là cái khổ nhất của bản Cát. “Khổ nhất vẫn là thiếu đường đi. Mấy chục năm nay cuộc sống của đồng bào chủ yếu tự cung tự cấp. Vì vậy trong số 67 hộ gia đình với 360 nhân khẩu thì có đến 51 hộ nghèo”, ông Trí buông tiếng thở dài thườn thượt.

Nhọc nhằn cắm bản

Chuyện dạy và học ở bản Cát vô cùng khó khăn. Cả bản có 60 học sinh từ lớp 1 đến lớp 5 với 5 giáo viên đứng lớp. Nằm giữa trung tâm của bản có một ngôi trường cấp 1. Học sinh hết lớp 5, nếu muốn tiếp tục đi học lên cấp 2 thì phải vượt gần 30 cây số đường rừng lên trung tâm xã mới có trường. Vì vậy nhiều em chỉ học xong cấp 1 lại tiếp tục theo chân ba mẹ lên rẫy trồng cây lúa nương, đặt cái bẫy bắt chim thú rồi lập gia đình… Con chữ vì thế cứ rụng dần vì cuộc mưa sinh gian nan vất vả. “Hiện tại cả bản mới chỉ có 1 em học trung cấp mầm non, 1 em học trường nội trú tỉnh và 2 em học trường nội trú huyện. Số còn lại hết lớp 4 lại ở nhà, lấy vợ, gả chồng”, thầy Hồ Văn Bảy xót xa.

Đời sống của giáo viên ở bản Cát khó khăn không kém. Ngôi trường cấp 1 ở trung tâm bản gọi là trường cũng đúng mà nhà cũng không sai. Lớp học được chia làm đôi, phía cuối phòng kê giường ngủ của thầy giáo. Thầy Hồ Văn Bảy, giáo viên có thâm niên 10 năm dạy học ở Trường TH bản Cát chia sẻ: “Trước đây, 5 giáo viên cắm bản cũng có 2 phòng ở nhưng sau cơn bão năm 2008, trường tốc mái, hư hỏng gần hết. Thầy cô giáo đành dọn đồ đạc vào lớp học. Ban ngày đứng lớp, ban đêm ngủ luôn ở phòng, mọi sinh hoạt cũng diễn ra ở đây. Vài lần các ban ngành chức năng về kiểm tra, xem xét. Nhưng đã 5 năm trôi qua, mọi sự kiểm tra vẫn còn nằm đâu đó trên giấy tờ!”.

Ở chốn núi rừng hoang vu này, một cuộc điện thoại từ gia đình, người thân là món ăn tinh thần quý giá nhất với những người ngày đêm lặng thầm gieo chữ. Cứ đến cuối tuần, thầy cô lại kéo nhau băng qua mấy quả núi, mất cả tiếng đồng hồ mới đến được điểm có sóng điện thoại. Muốn có sóng điện thoại, thầy cô lại phải thuộc những tay lo trèo giỏi, bởi sóng điện thoại chỉ có... trên ngọn cây! Vì thế, mỗi tin nhắn đối với họ quý như lá thư thời chiến. Trừ những tin nhắn khẩn, số còn lại không ai muốn mở đọc ngay lúc nhận được mà cứ để thế đọc dần mỗi ngày, vào lúc buồn hay nhớ nhà. Đợi đến tuần sau lại tiếp tục hành trình leo cây... nhận tin nhà.

Chia tay các giáo viên ở bản Cát. Dẫn chúng tôi đi trên lối mòn hai bên có ruộng lúa đang vào mùa gặt rộ. Gương mặt hốc hác của những người nông dân chân lấm tay bùn dường như giãn ra trước thành quả thu hoạch. Thầy Bảy nói, đây là thời điểm vui nhất của bản. Bởi sau vụ gặt không lâu, người dân lại rơi vào thiếu thốn, trẻ con vì thế cứ vơi dần để lên núi kiếm cái ăn...

Thụy Khuê

Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.